Thánh tử đạo Việt Nam: Anrê Tường (1812-1862)

No comments

Anrê Tường, thầy giảng; sinh năm 1812 tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh; chết 16 tháng 6 năm 1862, tại Làng Cốc. Phong Á Thánh 1951. Trong trường hợp thánh Anrê Tường thì không thấy ghi lại phép lạ nào, tài liệu để lại quá ít, chỉ diễn tả mấy nét sơ sài, làm sao có thể làm rõ nét để mà hình thành một con đường tu đức? Có cảm tưởng Ngài như một vị thánh vô danh vậy! Lễ kính vào ngày 16/06.
Chứng từ cho Tin Vui đạo Chúa ở ngay trong cuộc sống bình lặng thường ngày. Chứng từ của các ngài vượt trên chữ viết hay tài liệu. Đức tin mới là cốt lõi, coi thường mọi sự, kể cả mạng sống mình.

ĐI TÌM ĐƯỜNG TU ĐỨC

Mùa hè năm 1995, tôi xếp đặt để có thể qua Paris vào văn khố của Hội Thừa Sai Paris (MEP) để tìm tòi tài liệu. Nhưng sau một thời gian vật lộn với cái nóng mùa hè để ngồi đọc những lá thư viết tay do các vị giám mục truyền giáo liên hệ gửi về Hội Thừa Sai và Bộ Truyền Giáo, tôi sinh nản lòng. Vì thực ra cũng chẳng thu lượm thêm được bao nhiêu hơn những điều đã đọc và đã biết. Tôi mò mẫm ngó tới nhìn lui trong phòng lưu trữ di tích các Thánh Tử Đạo. Đây là cuốn sách nguyện của thánh Đoàn Công Quí; kia là đôi hài mỗi khi làm lễ của thánh Dũng Lạc; rồi những bộ xương thánh để trong những hộp gắn kỹ.
Nhưng rồi mắt tôi bỗng được khai mở dần, nhận ra một điều thật đơn giản: con mắt niềm tin là tất cả. Có con mắt này thì thấy được phép lạ và làm được phép lạ, chẳng sách vở nào ghi chép hết được. Đây là con đường ngắn nhất. Vì có phải đi đâu mà cần đường. Chỉ cần mở mắt đức tin là thấy ngay được Chúa Toàn Năng vẫn đang có mặt. Mà cũng là con đường dễ nhất, sẵn nhất. Vì chính là con đường đơn sơ của Phúc Âm như Mẹ Maria tại Na-da-rét. Cũng với những kinh đọc ngắn gọn, cũng với những bổn phận của đời thường, trong gia đình, với xóm ngõ, nhưng khác là làm với con mắt niềm tin và lòng yêu mến, biến cuộc sống thành vườn Địa Đàng, vì nơi nào có Chúa thì đó là Thiên Đàng: Nước Chúa ở giữa anh em.
Bỗng một ngày người tin Chúa nhận ra mình đã trúng số, giàu có sang trọng quá. Vì mình là con của Vua Trời Đất cơ mà, còn gì hơn được nữa. Và mình cũng được Chúa ban quyền năng làm phép lạ, có sức biến đổi vượt thắng mọi sự bằng chính thần lực Chúa. Không gì mà không làm được trong Chúa là sức mạnh như cảm nghiệm của Thánh Phaolô.
Những mẩu xương để lại là bằng chứng hùng hồn nói lên niềm tin tuyệt đối: không gì có thể tàch lìa khỏi tình yêu của Chúa.

NÊN THÁNH BẰNG ĐỜI THƯỜNG

Đường tu đức của thánh Anrê Tường đúng là con đường ngắn nhất, dễ nhất và sẵn nhất. Cốt tủy vẫn là con mắt đức tin khám phá ra kho tàng đức tin, mọi nơi mọi lúc.
Thánh Anrê Tường sinh năm 1812. Cha mẹ Ngài là ông bà Đaminh Tiên và Maria Gương. Lớn lên Ngài lập gia đình và được đông con cái, chu toàn bổn phận giáo dục gia đình trong nếp sống bình lặng, sống đời Công giáo đạo đức cũng thật bình lặng tại xứ Lục Thủy, Nam Định.
Ngài bị bắt ngày 14.9.1861, lúc 50 tuổi, cùng với các ông Đaminh Nguyện 60 tuổi, Vinh Sơn Tường 48 tuổi, Đaminh Mạo 44 tuổi và Đaminh Nhi 40 tuổi. Trước hết các Ngài bị tra tấn và giam giữ tại Xuân Trường, rồi bị phát lưu giam tù tại làng Bạch Cốc Vụ Bản là làng ngoại giáo.
Theo lời khai của Đa Minh Mậu, con của Thánh Mạo là con rể của thánh Anrê Tường, thì trong ba bốn lần đến thăm, ông đều thấy các ngài siêng năng đọc kinh sáng tối, nhất là kinh Mân Côi, kinh các thiên thần, ăn chay ba lần một tuần. Suốt trong chín tháng bị giam tù, các ngài bị hành hạ rất nhiều, ban ngày bị đeo gông nặng và đêm phải cùm chân. Trên má phải khắc chữ ”Tả Đạo”, và bị bắt đạp ảnh bỏ đạo. Nhưng các ngài vẫn cương quyết: ”Các quan coi chúng tôi như trẻ con sợ hãi hình khổ hơn là sợ xúc phạm đến Thiên Chúa sao?!”
Quan thấy không thay chuyển được các ngài liền cho thi hành án xử đem các ngài ra pháp trường chém đầu ngày 16.6.1861. Theo nhân chứng thì trước khi bị hành hình, các ngài đã đọc kinh Ăn năn tội, kinh Phó Dâng, và xin lý hình chém ba nhát để kính Chúa Ba Ngôi. Xác các ngài được chôn ngay tại nơi xử, và sau này được cải táng về làng Ngọc Cục.

MỘT VỊ THÁNH HẦU NHƯ VÔ DANH

Ông Anrê Tường sống vào thời kỳ bắt đạo khủng khiếp nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Vì bị người Pháp áp đảo, Vua Tự Đức tức giận, không làm gì được Tây thì đổ hết mọi tội lỗi lên đầu người Công giáo và ra những sắc lệnh tàn ác có ý nhổ sạch rễ đạo Công Giáo trong nước.
Sắc lệnh năm 1851 bắt các quan và lính Công Giáo phải bỏ đạo. Ra hạn cho các quan một tháng, cho lính 6 tháng. Quan và lính Công giáo không được một quyền lợi gì cả, không được thi cử và làm việc nước. Người Công Giáo bị bắt đày lên vùng thượng du nước độc.
Sắc lệnh năm 1859 ban hành để trả thù người Công Giáo, vì nghi người Công giáo thông đồng với người ngoại quốc trong vụ tàu Pháp tấn công vào cửa Đà Nẵng. Vua bắt tất cả trùm trưởng trong nước, nhốt tất cả quan và lính Công giáo, làm sổ người Công giáo từ 15 tuổi trở lên, phân tán Dòng Mến Thánh Giá bắt đi làm đầy tớ trong các nhà quan.
Sắc lệnh năm 1861 độc ác nhất: phân tán mọi gia đình Công giáo, tách rời vợ chồng, cha mẹ con cái, chia vào các làng ngoại giáo. Cứ 5 người ngoại coi giữ một người Công giáo. Phá bình địa các nhà thờ và cơ sở Công giáo. Ruộng đất người Công giáo và nhà xứ thì chia cho người ngoại. Khắc tên vào má bên phải chữ ”Tả Đạo” (nghĩa là đạo tà), và má bên trái tên huyện phủ, để không lẩn trốn được.
Quả tình các sắc lệnh trên đã tàn phá bình địa Giáo Hội Việt Nam. Đức Cha Liêu (Retord) đã khóc lên: ”Ôi buồn thảm thay Giáo Hội Việt Nam. Tôi đang ngồi trên đống gạch nát của những thánh đường như tiên tri Giêrêmia ngồi trên đống gạch vụn đền thờ Giêrusalem.”
Bao nhiêu người chết trên miền rừng sâu nước độc không để lại dấu tích gì. Con số 130 ngàn người tử đạo chỉ là tượng trưng. Nguyên thời kỳ này đã có tới 400 ngàn người bị phân tán lưu đày, 35 ngàn người chết vì đạo, 115 linh mục bị xử tử, 80 tu viện Mến Thánh Giá bị phá, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì đạo...
Như vậy, thánh Anrê Tường cũng đúng là một vị thánh tiêu biểu cho cả trên một trăm ngàn người vô danh đã chết vì đạo. Chẳng cần ai biết đến, chẳng cần ai viết sách ca tụng. Ngài vẫn mãi mãi là một người nhỏ bé nhất trong danh sách các thánh được tôn phong, nhưng kẻ nhỏ nhất trong nước Trời cũng còn lớn hơn Gioan Tẩy Giả, như lời Chúa đã nói trước. Cũng như có biết bao cử chỉ, biết bao tâm tình, biết bao hành động trong đời, đâu có phải không được ghi chép ra là không có giá trị lớn lao. Một nụ cười bao dung, một cái nhìn cảm thông, một bàn tay vỗ vễ an ủi... tất cả đều là những tác phẩm tuyệt vời, mắc tiền hơn bất cứ tuyệt tác nào của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Vincent van Gogh...
Chứng từ cho Tin Vui đạo Chúa ở ngay trong cuộc sống bình lặng thường ngày. Chứng từ của các ngài vượt trên chữ viết hay tài liệu. Đức tin mới là cốt lõi, coi thường mọi sự, kể cả mạng sống mình.

TIN VUI LỚN: QUÀ TẶNG QUÍ BÁU NHẤT

Vậy thì việc tôn phong các thánh đúng là một quà tặng quí báu nhất trao cho mỗi người. Từ nay mình biết cách khai đào mỏ quí kim đã chôn sẵn trong lòng, chỉ cần con mắt niềm tin là thấy được như vậy. Đây đúng là con đường ngắn nhất, dễ nhất và sẵn nhất, ai cũng có thể bước theo, ai cũng có thể nên thánh được. Và từ nay mình bắt đầu sống giàu có, với tác phong sang trọng được làm con của Chúa Trời Đất.
Tối nay, cầm tràng chuỗi trong tay đọc kinh với những kinh đơn sơ nhất, mình cảm thấy đang cùng với thánh Anrê Tường và biết bao nhiêu bậc tiên tổ đức tin, xướng lên sức mạnh của niềm tin. Dòng kinh đọc như hơi thở qua bao đời, vẫn tiếp tục sinh động chuyển lực cho đến hôm nay. Mình chỉ cần hòa vào dòng hơi thở đó là nhận được tất cả sức sống làm hồi sinh tâm hồn.

No comments :

Post a Comment